Thứ Năm, 15 tháng 5, 2014
Chính sách bên miệng hố chiến tranh của Trung Quốc
Cộng đồng quốc tế không có gì ngạc nhiên trước sự quyết đoán như vậy của Trung Quốc , bởi Trung Quốc âm mưu sử dụng xung đột chứ không phải các sáng kiến để giải quyết các tranh chấp lãnh thổ. Các tranh chấp Biển Đông không thể coi là xung đột giữa một bên là Trung Quốc với bên kia là các lân bang ASEAN ở Biển Đông - nơi Trung Quốc ngược ngạo khẳng định hết thảy chủ quyền lịch sử đối với quần đảo Trường Sa , Hoàng Sa ( Trung Quốc gọi là Nam Sa và Tây Sa ) và các đảo ngân khác rải rác trên biển. Hiện tại tranh chấp Biển Đông phát triển với quy mô quốc tế và tạo thành mối lo ngại toàn cầu trên cơ sở "bảo vệ các ích lợi chung toàn cầu" , "tự do hàng hải" và "sử dụng không hạn chế các tuyến đường biển quốc tế". Do đó , tranh chấp hiện tại ở Biển Đông chuyển từ cuộc xung đột do Trung Quốc khởi động chống các nước ASEAN thành Trung Quốc kháng cự Mỹ và cộng đồng quốc tế. Các quân hạm USS Shoup và USS-Russell của Mỹ di chuyển trên Biển đất Về địa chiến lược , Biển Đông không phải "vùng biển nội địa của Trung Quốc". Về chiến lược và quân sự , Biển Đông nằm ở vị trí quan trọng không những cho phép kiểm tra Đông Nam Á mà hết thảy khu vực ấn độ dương Nam và Đông Á. Do tầm quan trọng chiến lược đó , việc mở mang hoạt động ra hết thảy Tây thái bình Dương dẫn đến căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc. Tòng lai , khu vực ấn độ dương Tây thái bình Dương , trong đó có Biển Đông , nằm dưới sự Cầm đầu của Mỹ. Tây thái bình Dương cũng rất quan trọng với Trung Quốc , do đó Bắc Kinh có thể vận dụng mọi thủ pháp để phá vỡ ưu thế quân sự trên biển của Mỹ. Các cuộc tranh chấp Biển Đông ngày càng tăng một phần cũng do sự cạnh tranh chiến lược này. Tàu tuần duyên Nhật Bản và tàu hải giám Trung Quốc trên lãnh hải gần đảo Senkaku/Điếu Ngư Chính sách bên miệng hố chiến tranh quyết đoán của Trung Quốc trong các cuộc xung đột Biển Đông cơ bản xuất hiện sau hai thập niên Mỹ không coi trọng chiến lược ở Tây thái bình Dương mà chính yếu tập kết sức mạnh quân sượ̉ khu vực ấn độ dương Balkan , Afghanistan và Iraq. Điều này tạo điều kiện cho Trung Quốc xây dựng một lực lượng hải quân ngày càng mạnh mà không có bất cứ Bắt đầu làm chận nào của Mỹ. Cuối cùng của việc xây dựng quân đội và lực lượng hải quân của Trung Quốc đã và đang được biểu hiện rất rõ trong các cuộc xung đột Biển Đông hiện tại. Bắt đầu làm quyết đoán của Trung Quốc trên Biển Đông không tuyệt đối tập kết vào việc khai thác các khu vực ấn độ dương có nguồn dự trữ dầu mỏ dưới đáy Biển Đông mà còn có các mục tiêu chiến lược quan trọng trong các cuộc xung đột leo thang. Tàu cao tốc mang tên lửa tàng hình của Trung Quốc trên lãnh hải Hoa đất Chiến lược lớn của Trung Quốc gồm hai mục tiêu chủ yếu: ( 1 ) buộc Mỹ rút khỏi Đông Á và Tây thái bình Dương bằng cách sử dụng chính sách bên miệng hố chiến tranh quyết đoán ở tất thảy các lãnh hải Tây thái bình Dương khiến Mỹ mệt mỏi hoặc thụ động; ( 2 ) Trung Quốc sẽ xây dựng và phát triển sức mạnh hải quân gần ngang bằng sức mạnh của hải quân Mỹ ở Tây thái bình Dương. Mục tiêu cơ bản lớn hơn của Trung Quốc là phát triển sức mạnh ngày càng tăng của lực lượng hải quân không những dọc bờ biển Trung Quốc mặc cả ở Ấn Độ Dương. Chiến lược của Trung Quốc ở Biển Đông chính yếu xoay quanh ba rường cột. Thứ nhất , đề phòng/ngăn chặn/gây khó khăn cho việc quốc tế hóa các biến động Biển Đông bằng mọi giá. Thứ hai , chia rẽ sự đoàn kết của ASEAN để chận khu vực ấn độ dương hóa các tranh chấp. Thứ ba , luôn luôn gia tăng sức ép các tranh chấp Biển Đông ở mức khiến Mỹ không thể can thiệp quân sự trực tiếp , nhưng khu vực ấn độ dương sẽ là một điểm tạo sức ép chiến lược. Tàu cá cược Việt Nam hoạt động trên ngư trường truyền thống Hoàng Sa - Trường Sa Tranh chấp Biển Đông đã và đang tạo nên những tác động chiến lược toàn cầu. Những phát biểu trong cuộc xung đột Biển Đông ngày càng cuốn hút sự quan tâm của các ngoại bang khu vực ấn độ dương. Sự mất đoàn kết ở khu vực ấn độ dương Đông Nam Á và thiếu khả năng quân sự trong khu vực ấn độ dương để chận những Bắt đầu làm quyết đoán của Trung Quốc trong các cuộc xung đột Biển Đông đang mở đường cho các nước liên hệ đến khu vực ấn độ dương Biển Đông đứng về phía các nước bị Trung Quốc bủa vây và đe dọa. Mỹ là sức mạnh đối trọng; Nhật Bản và Ấn Độ được đánh giá là các đối trọng tương trợ Myở̃ châu Á - thái bình Dương để kiềm chế chính sách bên miệng hố chiến tranh của Trung Quốc. Nga là một cường quốc châu Á - thái bình Dương cũng sẽ bị lôi kéo dự khán sau khi Moscow tuyên bố chiến lược trở lại châu Á - thái bình Dương. Trong cuộc xung đột Biển Đông không chỉ Mỹ có những Bắt đầu làm công khai chận Trung Quốc mà Nhật Bản và Ấn Độ cũng có những Bắt đầu làm kháng cự Trung Quốc về chính trị , nếu không nói là về quân sự. Chính sách bên miệng hố chiến tranh quyết đoán và sử dụng sức mạnh của Trung Quốc trong các cuộc xung đột Biển Đông càng làm gia tăng nỗi lo ngại của châu Á về sức mạnh quân sự Trung Quốc. Các nước châu Á nhận thấy Trung Quốc không phải là một nhà nước có trách nhiệm về an ninh và sự ổn định của châu Á. Xung đột Biển Đông tạo thành sự phân cực và xúc tiến sự thăng bằng cơ cấu Chức quyền ở châu Á - thái bình Dương. Tham vọng chiến lược ngày càng tăng của Bắc Kinh đối với khu vực ấn độ dương châu Á , biểu hiện rất rõ từ "sức mạnh mềm" sang "sức mạnh cứng". Việc xâm lược bằng sức mạnh quân sự , gây sức ép chính trị và quân sự của Trung Quốc trong các cuộc xung đột Biển Đông không những phản bội lòng tin của các nước mà còn làm không xứng đáng của Trung Quốc là một nước lớn có trách nhiệm và yêu chuộng hòa bình. Điều này dẫn đến việc năm 2013 , khu vực ấn độ dương châu Á - thái bình Dương chứng kiến sự xuất hiện của cơ cấu "cân bằng sức mạnh" mới. Nói rộng hơn , Mỹ tăng cường cơ cấu liên minh quân sự hiện có ở Đông Bắc Á trên cơ sở Nhật Bản , Hàn Quốc và Philippines; khẳng định sự có mặt của Mỹ trong những mối giao tế an ninh với các nước ven Biển Đông. Đặc tính toàn cầu về chính sách bên miệng hố chiến tranh của Trung Quốc trong các tranh chấp Biển Đông được biểu hiện rõ nhất trong các bài phát biểu tại hội thoại Shangri-La tháng 6-2012 ở Singapore. Các chủ đề chung trong các bài phát biểu đó là cộng đồng quốc tế và các cường quốc cam đoan với an ninh "chung toàn cầu" và "tự do trên các lãnh hải quốc tế" và không nước nào có quyền tuyên bố các lãnh hải quốc tế là lãnh thổ của nước mình. Mỹ , Anh và Pháp khẳng định cam đoan với an ninh và sưộ̉n định của Đông Nam Á. Do đó các tranh chấp Biển Đông không còn là tranh chấp khu vực ấn độ dương. Mối lo ngại quốc tế trước ý đồ của Bắc Kinh nhằm áp đặt chủ quyền hết thảy Biển Đông và cam đoan mập mờ của họ đối với an ninh cũng như sưộ̉n định ở Đông Nam Á sẽ phát đi những tín hiệu bất lợi cho Trung Quốc. Lo ngại những đặc tính như vậy , các quan chức cấp cao của Trung Quốc đã lảng tránh và không dự khán hội nghị... Theo doanh gia Sài Gòn Cuối tuần . Các quân hạm USS Shoup và USS-Russell của Mỹ di chuyển trên Biển đất . Tàu tuần duyên Nhật Bản và tàu hải giám Trung Quốc trên lãnh hải gần đảo Senkaku/Điếu Ngư . Tàu cao tốc mang tên lửa tàng hình của Trung Quốc trên lãnh hải Hoa đất . Tàu cá cược Việt Nam hoạt động trên ngư trường truyền thống Hoàng Sa - Trường Sa .
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét